Đặt vấn đề: Ung thư đại – trực tràng là bệnh có thể chữa khỏi nếu phát hiện ở giai đoạn sớm. Trong điều trị thì phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị triệt căn cơ bản, nhưng khi bệnh ở giai đoạn tiến xa thì phẫu thuật đơn thuần sẽ gặp nhiều hạn chế. Để cải thiện kết quả của những bệnh nhân này, liệu pháp điều trị hoá – xạ trị đồng thời sau mổ đã được đề xuất nghiên cứu. Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, đánh giá kết quả và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị của hoá – xạ trị đồng thời sau mổ ung thư trực tràng năm 2020-2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân ung thư trực tràng đã phẫu thuật từ 4-6 tuần, chưa điều trị tiền phẫu, được điều trị hoá – xạ trị đồng thời sau mổ tại khoa Xạ Bệnh viện Ung bướu thành phố Cần Thơ từ 2020-2022. Đây là nghiên cứu mô tả trên 62 bệnh nhân. Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ=1,13. Đa số bệnh nhân trên 40 tuổi (96,7%). Có 29% ung thư trực tràng đoạn 1/3 dưới, 24,2% đoạn 1/3 giữa, 27,4% đoạn 1/3 trên và 19,4% ung thư khúc nối đại – trực tràng. Các phương pháp phẫu thuật: cắt trước thấp (50%), cắt trước (30,6%), Miles (17,7%), cắt trước cực thấp (1,6%). Thời gian sống thêm không bệnh 2 năm ước tính là: 83,9 ± 8,2 %. Vị trí tái phát hay gặp là: gan (60%). Thời gian sống thêm toàn bộ 2 năm ước tính là: 94,5 ± 3,1%. Phân tích cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa bệnh lý đái tháo đường, nồng độ CEA trước khi điều trị, đại thể bướu, giai đoạn bệnh, số lượng hạch di căn với thời gian sống thêm không bệnh. Kết luận: Phương pháp hoá – xạ trị đồng thời sau mổ giúp kiểm soát tốt tại chỗ, tại vùng, làm giảm tỷ lệ tái phát tại chỗ, kéo dài thời gian sống còn không bệnh và sống còn toàn bộ.
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện nhằm mô tả kiến thức đúng và thực hành đúng phòng chống Covid-19 của nhân viên y tế (NVYT) tại một số cơ sở y tế (CSYT) tại Hà Nội năm 2021. Nghiên cứu tiến hành trên 530 NVYT tại các CSYT Hà Nội, năm 2021. NVYT có thâm niên công tác từ 5 đến 10 năm chiếm tỷ lệ cao nhất (31,13%). Tỷ lệ NVYT đã kết hôn là 81,13%, họ có tham gia trực phòng chống COVID-19 và có tiếp xúc với người mắc COVID-19 (chiếm 87,55% và 82,45%). 96,42% NVYT có kiến thức đúng về lây chéo trong cơ sở Y tế; 99,43% có kiến thức đúng về đường lây nhiễm qua nước bọt. 90,57% NVYT có kiến thức đúng về lây nhiễm qua không khí. Trên 83,77% NVYT khối dự phòng và điều trị đều có kiến thức đúng về sốt, ho, đau họng, khó thở, cần tư vấn cho ca nghi ngờ và có kiến thức đúng về biện pháp thông thoáng phòng bệnh. NVYT đều có kiến thức đúng về tiên lượng và xét nghiệm COVID-19, không phải tất cả người bệnh đều nặng (96%); người cao tuổi và người mắc bệnh mạn tính, béo phì có thể tiên lượng nặng hơn (96,4%). Trên 90,94% NVYT trong cả khối điều trị và dự phòng thực hành đúng trong việc sử dụng trang bị bảo hộ cá nhân phòng lây nhiễm COVID-19 trong khi làm việc, sử dụng khẩu trang đúng chủng loại(N95), sử dụng kính bảo hộ hoặc mặt nạ phòng độc, sử dụng mũ chụp đầu, sử dụng găng tay. Tuy nhiên, chỉ có 29,25% NVYT cách ly với gia đình trong mùa dịch
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
customersupport@researchsolutions.com
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Copyright © 2025 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.