2Trường Đai học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên 3 Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam TÓM TẮT: Trong số các loài giun đũa thuộc giống Toxocara và Toxascaris, loài Toxocara canis phân bố rộng trên thế giới và ấu trùng có thể nhiễm cho người. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, tỷ lệ người nhiễm ấu trùng giun đũa chó tương đối cao, vì vậy, rất được quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, các tác giả chủ yếu tập trung điều tra dịch tễ và định loại dựa vào hình thái, có rất ít nghiên cứu về phân tử của giun đũa chó. Trong nghiên cứu này chúng tôi phân tích mối quan hệ tiến hóa phân tử của giun đũa chó thu tại tỉnh Phú Thọ dựa trên trình tự ITS2 và CO1. Kết quả phân tích khẳng định giun đũa chó tại Phú Thọ thuộc loài T. canis, có độ tương đồng cao về di truyền và quan hệ gần với quần thể của loài này ở Quảng Đông, Trung Quốc. Trình tự ITS2 và CO1 của T. canis khác xa với các loài trong giống Toxocara và loài Ta. leonina, cho thấy đây là các chỉ thị phân tử có giá trị trong định loại các loài giun đũa chó.Từ khóa: Toxocara canis, mối quan hệ tiến hóa phân tử, ITS2, CO1.
MỞ ĐẦUGiun đũa chó bao gồm một số loài gây bệnh cho người và động vật như Toxocara canis, T. cati, T. vitulorum, T. mystax và Toxacaris leonina [5,8]. Trong đó, T. canis là loài phổ biến nhất và phân bố rộng trên toàn thế giới [5]. Vật chủ chính (chó, mèo) bị nhiễm bệnh do nuốt phải trứng giun đã phát triển đến giai đoạn cảm nhiễm chứa ấu trùng L2. Người vô tình nuốt phải trứng giun thì ấu trùng giun đũa không phát triển đến trưởng thành mà di hành trong cơ thể gây ra nhiều thể bệnh ở người, như ấu trùng di hành ở dưới da, các nội quan, mắt hoặc não, gây ảnh hướng lớn đến sức khỏe con người [11]. Cùng với T. canis, một loài khác, Toxacaris leonina (Ta. leonina) cũng phân bố rộng và ký sinh ở vật chủ chó, nhưng ấu trùng của chúng không nhiễm cho người. Mặc dù thuộc 2 giống khác nhau, nhưng chúng có đặc điểm hình thái rất giống nhau và cùng ký sinh trong ruột non của chó. Vì vậy, định loại những loài giun này bằng hình thái đôi khi gặp khó khăn, dễ gây nhầm lẫn [13]. Sử dụng các kỹ thuật phân tử trong định loại đã khắc phục được vấn đề này. Một số gen của hệ gen nhân và gen ty thể, như nuclear ribosomal second internal transcribed spacer region (ITS2), mitochondrial cytochrome c oxidase subunit 1 (CO1), NADH dehydrogenase subunits 1 và 4 (pnad1 và pnad4), đã được sử dụng như những chỉ thị phân tử để định loại cũng như phân tích mối quan hệ tiến hóa của các loài giun đũa chó [3].Ở Việt Nam, giun đũa chó phân bố rộng trong cả nước và có tỷ lệ nhiễm tương đối cao [10,15]. Trong những năm gần đây, nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở người có xu hướng gia tăng, đặc biệt là ở khu vực miền trung Tây Nguyên [16]. Vì vậy, giun đũa chó và bệnh giun đũa chó rất được quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, các tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp truyền thống, như xét nghiệm phân tìm trứng và mô tả hình thái, có rất ít nghiên cứu ở mức độ phân tử. Trong quá trình điều tra tình hình nhiễm giun tròn ở chó tại tỉnh Phú Thọ chúng tôi phát hiện 26,9% chó bị nhiễ...