Mục tiêu nghiên cứu: xác định nồng độ và mối liên quan giữa adiponectin huyết thanh với đái tháo đường thai kỳ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu bệnh – chứng trên 136 thai phụ có tuổi thai từ 24 đến 28 tuần đến khám bệnh viện Phụ Sản thành phố Cần Thơ, trong đó có 68 thai phụ ĐTĐTK và 68 thai phụ không có ĐTĐTK theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ 2018. Định lượng adiponectin bằng phương pháp miễn dịch liên kết men (ELISA). Kết quả: Nồng độ adiponectin huyết thanh của nhóm thai phụ ĐTĐTK là 3,49 ±0,95 µg/ml, của nhóm thai phụ không có ĐTĐTK là 6,12 ±2,78 µg/ml, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,001. Thai phụ có nồng độ adiponectin huyết thanh <3,66 µg/ml tăng nguy cơ ĐTĐTK gấp 4,29 lần (KTC95% là 1,96 – 9,36). Giá trị dự báo khả năng ĐTĐTK khi nồng độ adiponectin < 3,66 µg/ml có độ nhạy 83,82%, độ đặc hiệu 61,76% (AUC=0,775). Kết luận: có mối liên quan giữa adiponectin huyết thanh với đái tháo đường thai kỳ, nồng độ adiponectin thấp tăng nguy cơ đái tháo đường thai kỳ.
Đặt vấn đề: Bên cạnh nghiệm pháp dung nạp đường, trong những năm gần đây, các nghiên cứu cũng tìm kiếm những dấu ấn sinh học khác nhằm dự đoán, tầm soát và chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK), trong đó được đề cập nhiều nhất là các adipokines do mô mỡ tiết ra. Ngoài vai trò dự trữ năng lượng, mô mỡ còn là một cơ quan nội tiết quan trọng điều hoà nhiều chức năng sinh học, thông qua việc sản xuất các hormone bao gồm adiponectin, leptin, yếu tố hoại tử khối u (TNFa) và resistin… Các nghiên cứu thấy rằng adiponectin và leptin là những dấu ấn sinh học tiềm năng trong tầm soát và chẩn đoán ĐTĐTK. Mục tiêu nghiên cứu: xác định mối liên quan giữa nồng độ adiponectin, leptin huyết thanh với bệnh đái tháo đường thai kỳ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu bệnh – chứng trên 106 thai phụ có tuổi thai từ 24 đến 28 tuần đến khám bệnh viện Phụ Sản thành phố Cần Thơ, trong đó có 51 thai phụ ĐTĐTK và 55 thai phụ không có ĐTĐTK theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ 2018. Định lượng adiponectin và leptin bằng phương pháp miễn dịch liên kết men (ELISA). Kết quả: Nồng độ adiponectin của nhóm thai phụ ĐTĐTK là 3,46 ±1,07 µg/ml, của nhóm thai phụ không có ĐTĐTK là 5,52 ±2,76 µg/ml, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,001. Nồng độ leptin của nhóm thai phụ ĐTĐTK là 8,69 ±6,80 ng/ml, của nhóm thai phụ không có ĐTĐTK là 7,52 ±4,52 ng/ml, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,28). Kết luận: Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi không tìm thấy mối liên quan giữa nồng độ leptin huyết thanh với ĐTĐTK, nồng độ adiponectin thấp có liên quan đến nguy cơ mắc ĐTĐTK.
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
customersupport@researchsolutions.com
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Copyright © 2024 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.