2012
DOI: 10.1177/1468794112465636
|View full text |Cite
|
Sign up to set email alerts
|

The researcher as ‘older sister’, ‘younger sister’ and ‘niece’: playing the roles defined by the Vietnamese pronominal reference system

Abstract: The article considers various dimensions of researcher-informant relationships arising while leading research in Vietnam, which inevitably influence the fieldwork done among the Vietnamese. The specificity of the relationships between the anthropologist and the researched is caused by one of the most characteristic features of Vietnamese language -the complicated system of terms of address and reference, based on such factors as sex, age and social position of the interlocutors. Due to the relational nature of… Show more

Help me understand this report

Search citation statements

Order By: Relevance

Paper Sections

Select...
1
1
1

Citation Types

0
4
0
2

Year Published

2015
2015
2022
2022

Publication Types

Select...
5
3

Relationship

0
8

Authors

Journals

citations
Cited by 10 publications
(6 citation statements)
references
References 30 publications
0
4
0
2
Order By: Relevance
“…Since the literal use of personal pronouns, that is, mày (you), tao (I), or nó (he or she), is khiếm nhã , “lack of grace” (Hoàng ), thô lỗ , “rude” (Trương ), or as a sign of anger, disrespect, or contempt (Thompson ), kinship appellations are extensively used as pronominals (Luong , ; M. Phạm ). Due to the absence of a transparent form of personal pronouns, speakers are forced to adopt a kinship role in relation to that of the interlocutor, which makes the Vietnamese language “an extreme example of ‘markedness’” (Szymanska‐Matusiewicz , 2). Address ( hô ) and self‐reference ( xưng ) must be used in a paired manner.…”
Section: The Intertwining Nature Of Morality and Affectionmentioning
confidence: 99%
“…Since the literal use of personal pronouns, that is, mày (you), tao (I), or nó (he or she), is khiếm nhã , “lack of grace” (Hoàng ), thô lỗ , “rude” (Trương ), or as a sign of anger, disrespect, or contempt (Thompson ), kinship appellations are extensively used as pronominals (Luong , ; M. Phạm ). Due to the absence of a transparent form of personal pronouns, speakers are forced to adopt a kinship role in relation to that of the interlocutor, which makes the Vietnamese language “an extreme example of ‘markedness’” (Szymanska‐Matusiewicz , 2). Address ( hô ) and self‐reference ( xưng ) must be used in a paired manner.…”
Section: The Intertwining Nature Of Morality and Affectionmentioning
confidence: 99%
“…Hình thức xưng hô (address forms, addressing forms, addressing terms, terms of address)/Cặp xưng hô (addressing dyads, addressing relationships) trong các ngôn ngữ cùng tính đa dạng, đa dụng, đa biểu thái của chúng là một hiện tượng thú vị trong nghiên cứu giao tiếp liên/giao văn hoá (Nguyễn Quang, 1992;Hughson, 2009;Szyman´ska-Matusiewicz, 2014 …). Có rất nhiều hệ thống xưng hô khác nhau trong các cộng đồng ngôn ngữ-văn hoá khác nhau: có những hệ thống đơn trục và đa trục, có những hệ thống thể hiện rõ tính dân chủ và bình đẳng trong quan hệ giao tiếp; có những hệ thống mang nặng mầu sắc tôn ti, gia trưởng và thừa kế quyền sinh (birthright inheritance); có những hệ thống mà trong bản thân chúng đã khu biệt đầy đủ tuổi tác, giới tính, địa vị, thái độ, tình cảm ...; và thậm chí, có cả những hệ thống toát lên mạnh mẽ ý niệm hiện sinh và đậm đặc tính chủ quan nội sinh.…”
Section: Hình Thức/cặp Xưng Hô Trong Các Ngôn Ngữunclassified
“…Và có xẩy ra cái mà ta gọi là 'sự toàn cầu hoá' -... Đây là những vấn đề rộng lớn và, hiện tại, chúng tôi không có khả năng và ý định đi sâu nghiên cứu với tư cách cá nhân. Những câu hỏi này được nêu ra chỉ nhằm gợi mở cho các nghiên cứu trong tương lai của bản thân và các đồng nghiệp có quan tâm.Nói tóm lại, xét theo chủ quan tính, có một điểm trong cách thức sử dụng các hình thức/cặp xưng hô trong hầu hết các ngôn ngữ được nhiều nhà nghiên cứu tán đồng ở các mức độ khác nhau (Brown và Gilman, 1972; Bates và Benigni, 1975; Lambert và Tucker, 1976;Wardhaugh, 1986;Fasold, 1990; Muehlhaeusler và Harre, 1990; Nguyễn Quang, 1992;Hughson, 2009;Szyman´ska-Matusiewicz, 2014 ...). Đó là (Fasold, 1990: …”
unclassified
“…Particularly in Southeast Asia this is somewhat surprising. In a context where various language systems require differentiation in terms of address and reference, amongst other things, based on age (Enfield, 2007;Szymańska-Matusiewicz, 2014) most researchers are confronted with the importance of relative age in the process of doing research. Thus, it is strange to see that this awareness rarely informs the analysis in work on child and youth migration.…”
Section: Relative Agementioning
confidence: 99%