Đặt vấn đề: Việc xác định các yếu tố nguy cơ mới của bệnh mạch vành (BMV) ngày càng được nghiên cứu nhiều hơn nhằm mục đích phát hiện sớm và phòng ngừa căn bệnh nguy hiểm này. Nồng độ beta-2-microglobulin (B2M) huyết tương được báo cáo là có liên quan đến sự tiến triển của BMV. Mục tiêu: 1) Mô tả nồng độ B2M huyết tương trên bệnh nhân BMV tại Viện Tim mạch Bệnh viện Bạch Mai; 2) Phân tích mối liên quan giữa nồng độ B2M huyết tương với mức độ hẹp mạch vành trên bệnh nhân BMV. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 50 bệnh nhân được chẩn đoán xác định mắc BMV dựa trên kết quả chụp ĐMV qua da và 50 người khỏe mạnh được định lượng nồng độ B2M huyết tương bằng phương pháp miễn dịch đo độ đục trên máy Cobas c702 hãng Roche Diagnostics. Kết quả: Nồng độ B2M huyết tương ở nhóm bệnh nhân BMV (2,33 ± 0,47 mg/L) cao hơn so với nhóm chứng (1,84 ± 0,28 mg/L) có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Nồng độ B2M huyết tương có mối tương quan thuận ở mức độ trung bình với số nhánh động mạch vành (ĐMV) hẹp và mức độ hẹp ĐMV trên bệnh nhân BMV với hệ số tương quan lần lượt là 0,469 và 0,481. Kết luận: 1) Nồng độ B2M huyết tương nhóm bệnh nhân BMV cao hơn nhóm chứng; 2) Có mối tương quan thuận ở mức độ trung bình giữa nồng độ B2M huyết tương với số nhánh ĐMV hẹp và mức độ hẹp ĐMV trên bệnh nhân BMV.
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và kết quả ở trẻ em mắc viêm não kháng NMDAR được TPE. Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu mô tả loạt ca trẻ viêm não kháng NMDAR được điều trị thay huyết tương (TPE) từ 1/2019 – 6/2022 tại Bệnh Viện Nhi Đồng 2. Kết quả: Có 32 trẻ viêm não tự miễn (VNTM) - 18 ca viêm não kháng NMDAR và 14 ca có khả năng VNTM kháng thể âm tính. Nhóm viêm não kháng NMDAR có tỉ lệ nam:nữ là 1:2,6 và tuổi trung vị là 7 (4,5-12,3) tuổi. Thời gian từ lúc khởi bệnh đến lúc nhập viện trung vị là 8,5 (4-14) ngày. Phần lớn (89,9%) trường hợp viêm não nặng với rối loạn tri giác (100%), rối loạn tâm thần (94,4%), giảm khả năng nói (94,4%), co giật (83,3%) và rối loạn vận động (100%). Nhóm viêm não kháng NMDAR có tỷ lệ cao hơn các biểu hiện ảo tưởng, tăng động, và rối loạn vận động so với nhóm có khả năng VNTM kháng thể âm tính. Về xét nghiệm cho thấy 83,3% có bất thường dịch não tuỷ (DNT) với số lượng và tỉ lệ tăng bạch cầu cao hơn so với nhóm còn lại. EEG bất thường trong 75% trường hợp và MRI não chỉ 33,3% ghi nhận bất thường. Điều trị miễn dịch với 5,6% TPE đơn trị, 83,3% IVMT+TPE và 11,1% IVMT+TPE+IVIG. Kết quả với 77,8% cải thiện và thời gian nằm viện trung vị là 39 ngày. Kết luận: Triệu chứng thường gặp nhất của viêm não kháng NMDAR nặng bao gồm rối loạn tri giác, tâm thần kinh, giảm khả năng nói và rối loạn vận động. Viêm não kháng NMDAR nặng có đáp ứng tốt sau điều trị miễn dịch, đặc biệt là khi phối hợp IVMT+TPE.
Đặt vấn đề: Viêm não tự miễn (VNTM) có thể gây ra những biến chứng nghiêm trọng và điều trị thay huyết tương (TPE) có thể là lựa chọn điều trị; tuy nhiên, tính an toàn và hiệu quả cần được kiểm tra kỹ lưỡng. Mục tiêu: Xác định các đặc điểm của TPE ở trẻ VNTM tại Bệnh viện Nhi Đồng 2. Phương pháp: Mô tả hồi cứu loạt trường hợp VNTM được TPE từ 1/2019 – 6/2022. Kết quả: Có 36 trường hợp VNTM phần lớn (94,4%) là viêm não nặng với tuổi trung vị 7,4 và cân nặng trung vị là 24,4 kg, được TPE. Tổng cộng 210 chu kỳ TPE với trung vị là 6 chu kỳ/bệnh nhân, thời gian trung vị là 11,5 ngày, thể tích thay thế trung vị 1 chu kỳ là 1690 mL. Huyết tương tưởi đông lạnh (FFP) là dịch thay thế thường dùng (61,1%). Phản ứng phản vệ xảy ra ở 11,4% thủ thuật, cao hơn ở nhóm dịch thay thế FFP; hạ huyết áp xảy ra ở 3,8% chu kỳ. Hạ canxi máu xảy ra ở 44,9% chu kỳ được kiểm tra, hạ canxi có triệu chứng chỉ 1%. Nhiễm trùng sau TPE là 44,4%. Kết cục có 94,4% trường hợp xuất viện, trong đó cải thiện ở 69,4%, thời gian nằm viện trung vị là 39 ngày. Không có sự khác biệt tỉ lệ cải thiện giữa loại dịch thay thế albumin và FFP. Tỉ lệ cải thiện nhóm TPE trước 28 ngày cao hơn. Kết luận: FFP hoặc albumin đều có thể được dùng làm dịch thay thế trong TPE ở trẻ VNTM. Theo dõi chặt chẽ và dự phòng ngừa phản vệ, đặc biệt nếu FFP được chọn. Thận trọng khi chỉ định TPE, chỉ nên dùng cho bệnh nặng/diễn tiến không thuận lợi, vì đây là thủ thuật xâm lấn và có tác dụng phụ. Cần theo dõi liên tục để phát hiện, xử trí kịp thời các biến chứng.
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
customersupport@researchsolutions.com
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Copyright © 2024 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.