TÓM TẮTPhân tích 52 mẫu vật được thu thập và mô tả trong thời gian từ tháng 2/2010 đến tháng 12/2012 đã cho phép xác định 12 loài, thuộc 6 giống, 5 họ, 3 bộ cá nhám/mập ở vùng biển Quy Nhơn và lân cận, trong đó bộ cá mập mắt trắng (Carcharhiformes) có số loài nhiều nhất (7 loài) sau đó là bộ cá nhám thu (Lamniformes) với 3 loài. Bộ cá nhám góc (Squaliformes) và bộ cá nhám râu (Orectolobiformes) mỗi bộ 1 loài. Về phân bố, bước đầu có thể cho rằng cá nhám voi (Rhincodon typus), cá nhám đuôi dài mõm ngắn (Alopias vulpinus), cá nhám thu (Isurus oxyrinchus) sống chủ yếu vùng biển khơi và xuất hiện ở vùng biển Quy Nhơn và lân cận với tần số thấp. Các loài cá mập thoi (Carcharhinus brevipina), cá mập thâm (Carcharhinus limbatus) có thể sống tập trung ở vùng thềm lục địa bên ngoài và vào vùng gần bờ với số lượng ít và theo mùa. Chỉ những cá thể nhỏ của cá mập da trơn (Carcharhinus falciformis), cá nhám búa vây đen (Sphyrna lewini) mới sống ở gần bờ còn cá trưởng thành sống chủ yếu vùng khơi và ít vào bờ. Các loài như cá mập mắt to (Carcharhinus amboinensis), cá mập vây đuôi có chấm (Carcharhinus sorrah), cá nhám góc mõm dài (Squalus japonicus) có thể coi là sống xung quanh các đảo và ngoài cửa vịnh. Loài cá mập sọc trắng (Carcharhinus amblyrhynchoides) có đời sống quần thể gắn liền với vùng biển Quy Nhơn và lận cận. Một cá thể cá mập trắng lớn (Carcharodon carcharias) đã được bắt ở ven biển trong tình trạng yếu sức và đang trôi dạt vào bờ. Vì vậy, nên loại tên loài này trong danh mục các loài cá nhám/mập phân bố ở vùng biển Quy Nhơn và lân cận. MỞ ĐẦUNhóm cá nhám/mập được sử dụng để gọi các loài cá thuộc liên bộ dạng nhám (Selachii), phân lớp cá mang tấm (Elasmobranchii), lớp cá sụn (Chondrichthyes) với 403 loài thuộc 106 giống, 33 họ, 9 bộ được ghi nhận trên thế giới [18]. Nghiên cứu về nhóm cá này ở vùng biển Việt Nam đã được tiến hành tương đối sớm, nhưng chỉ được mô tả tương đối có hệ thống thành danh mục 43 loài bởi [21], căn cứ trên các tài liệu nghiên cứu trước 1945 của các tác giả người Pháp và kết quả của các chuyến khảo sát hợp tác Việt -Trung và Việt -Xô đầu những năm 1960. Ở Miền Nam có công trình của công trình của Trần Ngọc Lợi và Nguyễn Cháu [27] nêu danh sách 12 loài cá thuộc liên bộ dạng nhám (Selachii) có giá trị thương mại ở Việt Nam, phần lớn các loài này đều có phân bố vùng biển miền Trung. Orsi [24] đã công bố 45 loài cá nhám/mập thuộc liên bộ dạng nhám ở biển và nước ngọt của Việt Nam. Sau năm 1975, chương trình điều tra cấp Nhà nước đã góp phần bổ sung mẫu vật và thông tin về phân bố và nguồn lợi cá sụn nói chung nhưng không có tài liệu được công bố. Nguyễn Hữu Phụng và Trần Hoài Lan [20] tập hợp toàn bộ thông tin và mẫu vật có được đưa ra danh mục 62 loài thuộc liên bộ dạng nhám (Selachii). Nguyễn Khắc Hường [22] đã mô tả 62 loài cá thuộc
Cá mú giống khai thác tự nhiên đã cung cấp nguồn giống quan trọng cho việc phát triển nuôi cá thương phẩm. Nguồn cá mú giống khai thác tự nhiên ở vùng đầm Thị Nại, vịnh Quy Nhơn (Bình Định) và đầm Cù Mông (Phú Yên) đã xác định được 7 loài là cá mú chấm vạch (Epinephelus amblycephalus), cá song gio (E. awoara), cá song nâu (E. bruneus), cá mú điểm gai (E. malabaricus), cá mú sau sọc (E. sexfasciatus), cá mú mè (E. coioides) và cá song (Epinephelus sp); trong đó có ba loài là cá song nâu (E. bruneus), cá mú điểm gai (E. malabaricus) và cá mú mè (E. coioides) là những loài được IUCN xếp ở mức nguy cấp bậc VU và NT. Con giống cá mú điểm gai chiếm tỉ lệ khá cao trên 30%. Chiều dài toàn thân trung bình cá giống của các loài khác nhau,
Thành phần loài thuộc họ cá mú (Serranidae) ở vùng biển ven bờ Đà Nẵng và Quảng Nam khá đa dạng, có 6 giống với 30 loài (vùng biển ven bờ Đà Nẵng có 21 loài và Quảng Nam có 25 loài), chiếm 60% thành phần loài thuộc họ cá mú ở vùng rạn san hô Việt Nam (50 loài) và bằng 42% số loài ở vùng biển Việt Nam (72 loài), bằng 24% số lượng loài thuộc họ cá mú ở Biển Đông (126 loài). Trong đó, giống cá song Epinephelus có số lượng loài nhiều nhất, với 17 loài. Số loài cá mú ở vùng biển ven bờ của Đà Nẵng và Quảng Nam đa dạng hơn các khu vực phía bắc như Quảng Ninh, ven bờ Bắc Trung Bộ; đồng thời cũng có số lượng loài nhiều hơn ở vùng rạn san hô quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên thấp hơn vùng biển ven bờ Khánh Hòa (36 loài). Thành phần loài cá mú ở vùng biển ven bờ Đà Nẵng và Quảng Nam có mức tương đồng cao với các khu vực ở phía bắc như Quảng Ninh, vùng biển ven bờ Bắc Trung Bộ và Hồng Kông; có mức tương đồng thấp hơn so với vùng rạn san hô ven bờ Nam Trung Bộ, rạn san hô quần đảo Trường Sa, rạn san hô Việt Nam và vùng biển Việt Nam; thấp nhất là với Đài Loan. Các loài thường xuyên bắt gặp là cá mú kẻ mờ (Cephalopholis boenak) chiếm 43%, loài cá song gio (Epinephelus awoara): 18% và loài cá mú (E. stictus): 16%. Chiều dài khai thác các loài cá mú nhìn chung đều tập trung ở nhóm loài có kích thước nhỏ, một số loài có kích thước lớn cũng bị đánh bắt khi chưa đạt tới kích thước chưa thành thục sinh dục như như cá song gio (Epinephelus awoara), cá mú nửa đuôi đen (Epinephelus bleekeri), cá mú mè (Epinephelus coioides), cá mú điểm gai (Epinephelus malabaricus), cá mú nâu (Epinephelus bruneus).
The paper presents the results of monitoring some basic environmental factors in the Can Gio environmental monitoring station in the period 2009-2019. The environmental parameters like temperature, salinity and pH, total suspended solids, dissolved oxygen, biochemical oxygen demand, nutrient concentrations (NH 4 + -N, PO 4 3--P) were collected and analyzed twice a month (both of high tide and low tide). Based on the results at the two monitoring stations, the coastal water quality in the study area changes seasonally, especially depends on the tide. The combination of rainy season and the low tide created a falling in the parameters of salinity and dissolved oxygen, whereas total suspended solids was high. Water temperature was found to be in the range of 27-30.6°C; salinity ranged between 20 and 29.5‰. The pH were found to be neutral and had decreasing features in recent years, whereas salinity was opposite. The recorded variation dissolved oxygen concentration in the study area was 3.9-5.9 mg.l -1 , with the lowest level at low tide. Generally, the environment in the study area was not polluted yet. However, at Long Hoa station C2, the value of of biochemical oxygen demand, phosphate and ammonia were higher than these which in Cau Den station C1. This shows that Can Gio area has a potential risk of partial pollution.
Three surveys were carried out in May, August and December 2014 at 7 sampling location to determine species composition of fish fauna in the coastal waters of Quang Ngai province (the Central Vietnam). A total number of 178 species of fishes were identified belonging to 125 genera, 68 families and 13 orders. Analysis of community structure of fish fauna showed that Perciformes order was the most popular, making up 71.9%; Tetraodontiformes (8.4%); Pleuronectiformes (5.6%). Serranidae family was the most abundant with 14 species, making up 7.9% of the total number of species; Carangidae: 12 species (6.7%); Lutjanidae, Gobiidae had the same number of species with 9 species (5.1%); Scombridae: 7 species (3.9%); Soleidae: 6 species (3.4%); Haemulidae, Mullidae, Tetraodontidae: 5 species (2.8%);... Cluster analysing based on the Bray-Curtis similarity index of nine fish faunas (Thai Binh, Son Tra, Thu Bon, Quang Nam, Nha Phu-Binh Cang, Ben Tre and Tra Vinh) showed that fish composition of the coastal estuaries of Tra Vinh and Ben Tre had the highest similarity (80%), subsequently fish fauna of Quang Ngai had similarity with that of Nha Phu-Binh Cang (39%), Quang Ngai and Quang Nam (42%), Quang Nam and Nha Phu-Binh Cang (41%), Quang Nam and Son Tra (38%), Thai Binh and Ben Tre (37%), Quang Ngai and Son Tra (36%). The result was also classified into two distinct groups of 7 fish faunas: Group 1-Tra Vinh, Ben Tre and Thai Binh; group 2-Quang Ngai, Quang Nam, Nha Phu-Binh Cang and Son Tra. The species richness (Margalef’s index) of Quang Ngai (34.2) was less abundant than other areas, the highest species richness belonged to Tra Vinh (38.2), Thai Binh (38.0), Quang Nam (37.8), Nha Phu-Binh Cang (35.1), Son Tra (30.9), Ben Tre (29.4). The diversity of species composition according to the level taxa in each region showed the characteristic of each fish fauna.
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
customersupport@researchsolutions.com
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Copyright © 2025 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.