Thành phần loài thuộc họ cá Mú (Serranidae) ở vùng biển ven bờ tỉnh Khánh Hòa khá đa dạng, có 11 giống với 36 loài, chiếm 72% thành phần loài thuộc họ cá mú ở vùng rạn san hô Việt Nam (50 loài) và bằng 50% số loài ở vùng biển Việt Nam (72 loài), bằng 29% số lượng loài thuộc họ cá Mú ở Biển Đông (126 loài). Trong đó, giống cá song Epinephelus có số lượng loài nhiều nhất, với 18 loài. Vùng biển vịnh Nha Trang có số lượng loài cá mú tới 28 loài; vịnh Vân Phong, Bến Gỏi có 17 loài; đầm Nha Phu, vịnh Bình Cang có 8 loài; vùng vịnh Cam Ranh, Đầm Thủy Triều có 5 loài. Cá mú ở vùng biển ven bờ tỉnh Khánh Hòa đa dạng hơn các khu vực phía Bắc như Quảng Ninh, ven bờ Bắc Trung Bộ; đồng thời cũng có số lượng loài nhiều hơn ở vùng rạn san hô quần đảo Trường Sa. Thành phần loài cá mú ở vùng biển ven bờ Khánh Hòa có mức tương đồng cao với vùng rạn san hô ven bờ Nam Trung Bộ, rạn san hô quần đảo Trường Sa, rạn san hô Việt Nam; có mức tương đồng thấp hơn các khu vực ở phía Bắc như Quảng Ninh, vùng biển ven bờ Bắc Trung Bộ, Hồng Kông và Đài Loan. Các loài thường xuyên bắt gặp ở Nha Trang là loài cá mú sọc ngang đen, Epinephelus fasciatus chiếm 36%; cá mú kẻ mờ, Cephalopholis boenak: 25% và loài cá mú chấm tổ ong, Epinephelus merra: 22%. Chiều dài khai thác các loài cá mú nhìn chung đều tập trung ở nhóm loài có kích thước nhỏ, một số loài có kích thước lớn cũng bị đánh bắt khi chưa đạt tới kích thước chưa thành thục sinh dục như cá song gio (Epinephelus awoara), cá mú chấm nửa đuôi đen (Epinephelus bleekeri), cá mú chấm bé (Plectropomus leopardus).
Cá mú giống khai thác tự nhiên đã cung cấp nguồn giống quan trọng cho việc phát triển nuôi cá thương phẩm. Nguồn cá mú giống khai thác tự nhiên ở vùng đầm Thị Nại, vịnh Quy Nhơn (Bình Định) và đầm Cù Mông (Phú Yên) đã xác định được 7 loài là cá mú chấm vạch (Epinephelus amblycephalus), cá song gio (E. awoara), cá song nâu (E. bruneus), cá mú điểm gai (E. malabaricus), cá mú sau sọc (E. sexfasciatus), cá mú mè (E. coioides) và cá song (Epinephelus sp); trong đó có ba loài là cá song nâu (E. bruneus), cá mú điểm gai (E. malabaricus) và cá mú mè (E. coioides) là những loài được IUCN xếp ở mức nguy cấp bậc VU và NT. Con giống cá mú điểm gai chiếm tỉ lệ khá cao trên 30%. Chiều dài toàn thân trung bình cá giống của các loài khác nhau,
Thành phần loài thuộc họ cá mú (Serranidae) ở vùng biển ven bờ Đà Nẵng và Quảng Nam khá đa dạng, có 6 giống với 30 loài (vùng biển ven bờ Đà Nẵng có 21 loài và Quảng Nam có 25 loài), chiếm 60% thành phần loài thuộc họ cá mú ở vùng rạn san hô Việt Nam (50 loài) và bằng 42% số loài ở vùng biển Việt Nam (72 loài), bằng 24% số lượng loài thuộc họ cá mú ở Biển Đông (126 loài). Trong đó, giống cá song Epinephelus có số lượng loài nhiều nhất, với 17 loài. Số loài cá mú ở vùng biển ven bờ của Đà Nẵng và Quảng Nam đa dạng hơn các khu vực phía bắc như Quảng Ninh, ven bờ Bắc Trung Bộ; đồng thời cũng có số lượng loài nhiều hơn ở vùng rạn san hô quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên thấp hơn vùng biển ven bờ Khánh Hòa (36 loài). Thành phần loài cá mú ở vùng biển ven bờ Đà Nẵng và Quảng Nam có mức tương đồng cao với các khu vực ở phía bắc như Quảng Ninh, vùng biển ven bờ Bắc Trung Bộ và Hồng Kông; có mức tương đồng thấp hơn so với vùng rạn san hô ven bờ Nam Trung Bộ, rạn san hô quần đảo Trường Sa, rạn san hô Việt Nam và vùng biển Việt Nam; thấp nhất là với Đài Loan. Các loài thường xuyên bắt gặp là cá mú kẻ mờ (Cephalopholis boenak) chiếm 43%, loài cá song gio (Epinephelus awoara): 18% và loài cá mú (E. stictus): 16%. Chiều dài khai thác các loài cá mú nhìn chung đều tập trung ở nhóm loài có kích thước nhỏ, một số loài có kích thước lớn cũng bị đánh bắt khi chưa đạt tới kích thước chưa thành thục sinh dục như như cá song gio (Epinephelus awoara), cá mú nửa đuôi đen (Epinephelus bleekeri), cá mú mè (Epinephelus coioides), cá mú điểm gai (Epinephelus malabaricus), cá mú nâu (Epinephelus bruneus).
The study was carried out during the period from June, 2003 to October, 2004 in the coastal waters of southern central Vietnam (from Da Nang city to Vung Tau city). There were 39 species of poisonous marine products that can causes a number human deaths. They belonging to three Phyla: Mollusca: 3 species: (Cephalopoda: I species: Greater blue-ringed octopus (Hapalochaena lunulata Q. & G., 1832); Gastropoda: 2 species: Geographus conus snail (Conus geograpus L., 1758) and Textile conus snail (onus textile L., 1758), Arthropoda: 4 species: (Crustacea: 3 species: Devil crabs (Zosimus aeneus L., 1958); Floridus crabs (Atergastis floridus L., 1758); (Platrpodia granulosa Ruppell, 1830); Merostomata: 1 horseshoe crabs (Carcinoscorpius rotundicauda Latreille, 1826) and Vertebrata 32 species: Snapper: 1 species: Two-spot red snapper (Lutjanus bohar Forskal, 1775); Goby: 1 species: Shadow goby (Yongeichthys ne bulosus Forskal, 1775), mainly 21 species puffer of family Tetraodontidae. The Reptilia are 9 species sea snake of subfamily Hydrophinae.
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
customersupport@researchsolutions.com
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Copyright © 2025 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.