Chuột nhắt trắng Mlac:ICR đang được nuôi tại Viện Kiểm định Quốc gia Vắc xin và Sinh phẩm y tế. Từ khi nhập về nhân giống tại Viện, số lượng sản xuất và sử dụng mỗi năm khoảng trên dưới 30 nghìn con. Trước khi đưa vào thí nghiệm hoặc sinh sản, động vật cần được kiểm tra để đảm bảo tình trạng sức khỏe. Mổ khám kiểm tra đại thể các cơ quan cũng như chỉ định các xét nghiệm nhằm phát hiện sớm bệnh lý mắc phải, tránh sử dụng những động vật không đạt tiêu chuẩn sẽ gây ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu và thử nghiệm cũng như duy trì đàn giống. Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu bước đầu xây dựng các thông số tham chiếu về cân nặng các cơ quan nội tạng của chuột nhắt trắng giống Mlac:ICR nuôi ở điều kiện Việt Nam.Phương pháp mô tả xác định cân nặng cơ quan nội tạng của chuột, thực hiện trên 600 cá thể (300 chuột đực và 300 chuột cái), ở mỗi độ tuổi 50 con đực và 50 con cái. Kết quả nghiên cứu trình diễn giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, tỷ lệ % so với trọng lượng cơ thể của cân nặng cơ quan nội tạng chuột ở độ tuổi 21; 24; 28; 35 ngày, 9 tuần tuổi và chuột loại sinh sản, riêng biệt giữa chuột đực và chuột cái bao gồm: Tim, gan, phổi, lách, tuyến ức và thận. Các chỉ tiêu cân nặng cơ quan nội tạng của chuột nhắt Mlac:ICR nuôi tại Viện Kiểm định Quốc gia Vắc xin và Sinh phẩm y tế có sự biến thiên phụ thuộc và độ tuổi, giới tính và tương đương với một số cơ sở chăn nuôi lớn trên thế giới.
Cẩm cù lộc là loài đặc hữu của Việt Nam và hiện đang có nguy cơ tuyệt chủng. Cẩm cù lộc là một trong những loài được sử dụng làm cây cảnh cũng như cây dược liệu. Việc phân loại thực vật hiện nay thường được dựa trên đặc điểm hình thái và DNA barcoding như matK, ITS, rpoC1,... Các đặc điểm phân tử là cần thiết cho việc nghiên cứu phân loại phân tử của từng loài; vì vậy, cần phải bổ sung các trình tự phân tử để tìm ra những marker đặc trưng nhất cho từng loài. Trong nghiên cứu này, trình tự gen atpB-rbcL và trnL trong lục lạp đã được phân lập từ mẫu cây Cẩm cù lộc. Trình tự gen atpB-rbcL thu được có kích thước 713 nucleotide và gen trnL có kích thước 524 nucleotide. Các trình tự có độ tương đồng cao với các trình tự cùng chi đã được công bố. Cả hai vùng atpB-rbcL và trnL được sử dụng để xây dựng cây phát sinh loài.
Ngổ rừng (Pogostemon auricularius (L.) Hassk) là một trong nhiều loài thảo dược thuộc họ Lamiaceae được sử dụng phổ biến ở các nước nhiệt đới. Ngổ rừng là loại thân thảo một năm, mọc ở nhiều nước, đặc biệt là các nước nhiệt đới như Ấn Độ, Sri Lanka, Bangladesh, Trung Quốc. Đối với y học cổ truyền Việt Nam, cây Ngổ rừng còn được dùng để chữa sốt rét, rắn cắn, vết thương, viêm họng, lở ngứa ngoài da, đau dạ dày, rối loạn tiêu hóa, đau thận, thấp khớp. Trong nghiên cứu này, cấu tạo giải phẫu rễ, thân, lá cây Ngổ rừng đã được mô tả bằng phương pháp làm tiêu giải phẫu hiển vi. Hoạt tính kháng khuẩn và kháng nấm của cao chiết cây Ngổ rừng đã được đánh giá. Cao chiết bằng ethanol của cây Ngổ rừng ức chế 4 chủng vi khuẩn P. aeruginosa, E. Coli, S. Aureus, C. freundii và 3 chủng nấm C. albican, A. Brasiliensis, A. flavus. Hoạt tính ức chế phụ thuộc vào nồng độ cao chiết sử dụng. So với kháng sinh, nồng độ 100 µg/mL có hoạt tính kháng khuẩn và kháng nấm tốt hơn.
Cây Vú bò (Ficus simplicissima Lour.) chứa flavonoid và saponin có khả năng chống oxy hóa mạnh, được dùng để điều trị một số bệnh như viêm nhiễm, dị ứng, loét dạ dày… Tuy nhiên, hàm lượng flavonoid tổng hợp tự nhiên trong cây Vú bò rất thấp (khoảng 0,897 mg/g lá tươi). Do đó, một phương pháp đã được đề xuất để tăng cường hàm lượng flavonoid trong cây Vú bò là ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy mô tạo dòng rễ tơ tăng sinh khối. Nghiên cứu này trình bày kết quả quá trình cảm ứng và nuôi cấy tạo dòng rễ tơ thông qua A. rhizogenes ở cây Vú bò. Trong 2 loại vật liệu lây nhiễm với A. rhizogenes (đoạn thân, mô lá) thì mô lá là vật liệu thích hợp cho tạo rễ tơ. Mật độ vi khuẩn tương ứng với giá trị OD600 = 0,8; nồng độ AS 150 μmol/l; thời gian nhiễm khuẩn 10 phút; thời gian đồng nuôi cấy 2 ngày; nồng độ cefotaxime 550 mg/l là những điều kiện thích hợp cho cảm ứng tạo rễ tơ từ mô lá. Môi trường MS ở trạng thái lỏng, không bổ sung chất điều hòa sinh trưởng, nuôi trong điều kiện lắc là môi trường thích hợp cho sự tăng trưởng rễ tơ. Kết quả kiểm tra sự có mặt của gen rolC bằng phương pháp PCR và sự vắng mặt của gen virD2 đã khẳng định 5 dòng rễ tơ được tạo ra từ cây Vú bò.
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
customersupport@researchsolutions.com
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Copyright © 2024 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.