Virus Epstein-Barr, được phát hiện năm 1964, đến nay được cho là có liên quan đến nhiều bệnh lý ung thư như ung thư vòm mũi họng, ung thư dạ dày và u lympho ác tính… Mục tiêu của bài tổng quan này tập trung phân tích ưu, nhược điểm của các kỹ thuật xét nghiệm Epstein-Barr virus và ứng dụng trong lâm sàng điều trị các bệnh nhân ung thư vòm mũi họng có Epstein-Barr virus dương tính theo phương châm y học cá thể hóa. Chúng tôi đã tìm kiếm, phân tích, tổng hợp các bài báo liên quan trên Pubmed. Kết quả cho thấy đã và đang có nhiều phương pháp xét nghiệm Epstein-Barr virus từ định tính đến định lượng, với các ưu/nhược điểm khác nhau, trong đó lai tại chỗ và PCR được lựa chọn hơn cả. Việc điều trị ung thư vòm mũi họng có Epstein-Barr virus dương tính vẫn dựa trên xạ trị đơn thuần hoặc xạ trị kết hợp hóa trị, tuy nhiên tải lượng Epstein-Barr virus liên quan tiên lượng bệnh, liệu pháp miễn dịch mới nổi đã có kết quả đầy hứa hẹn. Như vậy, từ kết quả xét nghiệm định lượng đã khuyến nghị các nhà lâm sàng trong thực hành điều trị cũng như tiên lượng bệnh, đặc biệt trong ung thư vòm mũi họng.
Việc điều trị tái phát ung thư nói chung cũng như ung thư vú nói riêng còn gặp một số trở ngại do các yếu tố như kháng thuốc, đặc điểm bệnh học, độc tính ở giai đoạn điều trị ban đầu. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá kết quả điều trị và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư vú tái phát. Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 40 bệnh nhân ung thư vú tái phát điều trị tại Trung tâm Ung bướu Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ ngày 01/01/2019 đến ngày 31/12/2021. Bệnh nhân ung thư vú tái phát chủ yếu được điều trị bằng hóa chất; 28,6% có đáp ứng điều trị. Bệnh nhân có mô bệnh học là ung thư biểu mô xâm nhập typ không đặc biệt, thụ thể nội tiết dương tính, Her-2/neu (-) hoặc dương tính 1+ có tỷ lệ đáp ứng cao hơn so với bệnh nhân có thể mô bệnh học khác, thụ thể nội tiết âm tính, Her2/neu 3+ (31,0% so với 16,7%; 38,9% so với 21,4%; 53,8% so với 15,8%); sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Độc tính của hóa trị hay gặp là độ 1,2. Chưa thấy có mối liên quan giữa các đặc điểm bệnh học với mức độ đáp ứng điều trị; các phác đồ điều trị có độ độc tính thấp, phù hợp với mức độ dung nạp của phần lớn bệnh nhân.
Mục tiêu: Đánh giá giá trị tiên lượng của chỉ số viêm-miễn dịch hệ thống (systemic immune-inflammation-SII) trước điều trị với sống thêm của bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển, di căn điều trị hóa chất bước một. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi dọc trên 51 bệnh nhân ung thư phế quản phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III,IV điều trị hóa chất bước một tại Trung tâm Ung bướu Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ 01/01/2017 đến 31/12/2018. Chỉ số viêm miễn dịch hệ thốngSII trước điều trị được tính bằng số lượng tiểu cầu x tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính/bạch cầu lympho. Điểm cut-off của chỉ số SII được xác định bằng đường cong ROC. Thời gian sống thêm trung bình được tính bằng phương pháp ước lượng thời gian theo sự kiện của Kaplan- Meier. Sử dụng phương pháp kiểm định Log- rank test và mô hình hồi qui Cox nhằm khảo sát các yếu tố tiên lượng ảnh hưởng đến tỷ lệ sống thêm toàn bộ. Kết quả: 22 bệnh nhân có chỉ số SII cao (≥1.409) và 29 bệnh nhân có chỉ số SII thấp (<1.409). Thời gian sống thêm trung bình là 23,7 tháng ở nhóm SII thấp và 13,1 tháng ở nhóm có SII cao (p<0,05). Phân tích đa biến cho thấy chỉ số SII trước điều trịvà chỉ số PS là yếu tố tiên lượng độc lập cho sống thêm toàn bộ. Kết luận: Chỉ số SII trước điều trị là yếu tố tiên lượng độc lập cho ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến triển, di căn hóa trị bước một.
Chửa trứng xâm nhập là bệnh phổ biến trong số các bệnh lý nguyên bào nuôi thai kỳ. Tần suất gặp chửa trứng xâm nhập đứng hàng thứ 2 sau chửa trứng không xâm nhập. Chửa trứng xâm nhập phá hủy tại tử cung, xâm nhập mạch máu và có thể di căn xa. Chửa trứng xâm nhập thường gặp ở lứa tuổi sinh đẻ, hiếm gặp ở tuổi tiền mãn kinh và mãn kinh. Vì vậy, chúng tôi báo cáo ca bệnh được chẩn đoán chửa trứng xâm nhập ở tuổi 55 là trường hợp hiếm gặp. Ca bệnh: Nữ, tuổi tiền mãn kinh, rong huyết kéo dài, không có tiền sử chửa trứng hay xảy thai bất thường. ßHCG cao hơn bình thường. Siêu âm và giải phẫu bệnh sau mổ cho kết quả: chửa trứng xâm nhập tử cung, mạch máu. Giai đoạn FIGO I với số điểm theo FIGO 2000 là 10 điểm, thuộc nhóm có yếu tố nguy cơ cao. Sau điều trị phẫu thuật và hóa trị liệu với Methotrexat x 4 chu kỳ, bệnh nhân đáp ứng tốt với điều trị hóa chất. Kết luận: Chửa chứng xâm nhập hiếm gặp ở bệnh nhân tiền mãn kinh. Chẩn đoán dựa vào siêu âm, định lượng ßHCG và kết quả mô bệnh học. Điều trị chủ yếu là phẫu thuật và hóa trị liệu. Bệnh đáp ứng đặc biệt tốt với hóa chất. Bệnh tiên lượng tốt vì đáp ứng với hóa chất điều trị.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả hóa trị bổ trợ trước (HTBTT) trên bệnh nhân ung thư vú giai đoạn III không mổ được. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứutrên 34 bệnh nhân ung thư vú giai đoạn III không mổ được điều trị bằng HTBTT tại Trung tâm Ung bướu Bệnh viện TW Thái Nguyên từ 01/01/2017 đến 31/12/2020. Ghi nhận các thông tin về một số đặc điểm lâm sàng, mô bệnh học, tỷ lệ đáp ứng, tỷ lệ chuyển thành mổ được; tỷ lệ độc tính của hóa trị. Kết quả: 67,7% bệnh nhân có đáp ứng toàn bộ trên lâm sàng, trong đó 11,8% bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn (ĐƯHT); 55,9% đáp ứng một phần (ĐƯMP); về mô bệnh học (MBH), đáp ứng hoàn toàn gặp là 16,6 %; 79,2% bệnh nhân đạt ĐƯMP trên mô bệnh học;tỷ lệ chuyển thành mổ được là 70,6%, trong đó 95,8% bệnh nhân đáp ứng yêu cầu mổ triệt căn; độc tính của hóa trị gặp phần lớn là độ 1,2. Kết luận: Hóa trị bổ trợ trước trên bệnh nhân ung thư vú giai đoạn III không mổ được có hiêu quả giảm giai đoạn u và hạch, giúp chuyển từ giai không mổ được sang mổ được, góp phần điều trị triệt căn cho bệnh nhân. Các phác đồ hóa chất có độc tính mức độ thấp, phù hợp với mức độ dung nạp của phần lớn bệnh nhân.
scite is a Brooklyn-based organization that helps researchers better discover and understand research articles through Smart Citations–citations that display the context of the citation and describe whether the article provides supporting or contrasting evidence. scite is used by students and researchers from around the world and is funded in part by the National Science Foundation and the National Institute on Drug Abuse of the National Institutes of Health.
customersupport@researchsolutions.com
10624 S. Eastern Ave., Ste. A-614
Henderson, NV 89052, USA
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Copyright © 2024 scite LLC. All rights reserved.
Made with 💙 for researchers
Part of the Research Solutions Family.